Thiên Chúa hiện ra trong bụi gai bốc cháy – Kinh Thánh Trẻ (Cựu Ước)

Câu chuyện thứ 12:
THIÊN CHÚA HIỆN RA TRONG BỤI GAI BỐC CHÁY
Sách Xuất Hành chương 3


Một hôm, Ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô. Ông dẫn đàn chiên qua sa mạc đến núi Khô-rếp. Thiên sứ của Thiên Chúa hiện ra với ông trong lửa cháy giữa bụi gai. Mô-sê thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông tự bảo: “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được”.

Từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: “Mô-sê! Mô-sê!” Ông thưa: “Dạ, có con đây! ” Người phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh. Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp.” Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa thì chết.

Thiên Chúa phán: “Ta đã thấy cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Ta muốn giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng tới một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật. Ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với vua Pha-ra-ô để đưa dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.”

Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: “Con là ai mà dám đến với Vua Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập? Vả lại con không biết nói năng.” Chúa phán: “Ta sẽ ở với ngươi. Bây giờ, đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì ngươi trả lời họ: “Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu.” Đó là danh Ta muôn thuở, danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia.”

Ngươi hãy đi triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em, đã hiện ra với tôi và phán: Ta thật sự quan tâm đến cách người ta đối xử với các ngươi bên Ai-cập. Ta sẽ cho các ngươi thoát cảnh khổ cực bên Ai-cập mà lên miền đất người Ca-na-an tràn trề sữa và mật. Họ sẽ nghe tiếng ngươi, rồi ngươi sẽ đi với các kỳ mục Ít-ra-en đến cùng vua Ai-cập nói với vua ấy rằng: Thiên Chúa của người Híp-ri đã cho chúng tôi được gặp Người. Giờ đây, xin cho chúng tôi đi vào sa mạc để tế lễ Thiên Chúa chúng tôi. Ta biết rằng vua Ai-cập sẽ không cho các ngươi đi, trừ khi có bàn tay quyền năng của Ta can thiệp. Ta sẽ làm các phép lạ giữa dân Ai-cập để đánh nó, và sau cùng, vua ấy sẽ cho các ngươi đi”.

Advertisement

Ông Mô-sê chào đời – Kinh Thánh trẻ (Cựu Ước)

Câu chuyện thứ 11:
ÔNG MÔSÊ CHÀO ĐỜI
Sách Xuất Hành chương 2

Dân Is-ra-en làm nô lệ bên Ai-Cập và tuy họ làm việc vất vả nhưng họ sanh con đẻ cái đông đúc, Vua Ai-cập sợ nên truyền giết tất các bé trai Is-ra-en mới sinh.

Có một bà Lê-vi sinh một con trai. Thấy đứa bé dễ thương quá, bà giấu nó ba tháng trời vì sợ người Ai-cập giết. Khi không thể giấu lâu hơn được nữa, bà lấy một cái thúng cói bỏ đứa bé vào, rồi đặt cái thúng trong đám sậy ở bờ sông Nin.

Bà sai chị đứa bé đứng ở đàng xa để xem chuyện gì sẽ xảy ra cho em nó. Lúc đó, nàng công chúa của Pha-ra-ô đang tắm dưới sông. Nàng thấy cái thúng động đậy ở giữa đám lau sậy, thì sai đầy tớ tới xem. Mở thúng ra, nàng thấy một bé trai đang khóc. Nàng động lòng thương và nói: “Đứa bé này là một trong những đứa trẻ người Híp-ri.”

Chị đứa bé đứng trên bờ sông thưa với công chúa: “Bà có muốn con đi gọi cho bà một vú nuôi người Híp-ri, để nuôi đứa bé cho bà không?” Công chúa Pha-ra-ô trả lời: “Cứ đi đi!” Người con gái liền đi gọi mẹ đứa bé. Công chúa Pha-ra-ô bảo bà ấy: “Chị đem đứa bé này về nuôi cho tôi. Tôi sẽ trả công cho chị.” Người đàn bà mang ngay đứa bé về nuôi. Khi đứa bé lớn lên, bà đưa nó đến cho công chúa của Pha-ra-ô. Nàng coi nó như con mình và đặt tên là Mô-sê; nghĩa là được vớt lên khỏi nước.”

Ông Môsê lớn khôn, và một hôm ông ra ngoài thăm đồng bào Is-ra-en. Ông thấy những việc khổ sai họ phải làm thì xót thương. Ông thấy một người Ai-cập đang đánh đồng bào của ông. Nhìn trước nhìn sau không thấy có ai, ông liền giết người Ai-cập, rồi chôn vùi dưới cát.

Hôm sau, ông lại đi ra, gặp hai người Híp-ri đang đánh nhau, ông nói với người có lỗi: “Tại sao anh lại đánh người đồng hương?” Người đó trả lời: “Ai đã đặt ông lên làm người xét xử chúng tôi? Hay là ông tính giết tôi như đã giết tên Ai-cập kia hay sao?” Ông Mô-sê sợ và tự bảo: “Người ta đã biết chuyện rồi! Ta nên chạy trốn” Nghe biết chuyện, Pha-ra-ô tìm giết ông Mô-sê. Ông Mô-sê liền đi trốn tới miền Ma-đi-an. 

Con gái Thầy tư tế Ma-đi-an đến múc nước ở giếng và đổ đầy máng cho chiên uống. Bấy giờ, có những người chăn chiên khác đến và đuổi các cô đi. Ông Mô-sê liền bênh vực các cô và múc nước cho chiên uống. Các cô về nói với cha là ông Rơ-u-ên rằng: “Có một người Ai-cập đã cứu chúng con khỏi tay bọn chăn chiên, lại còn múc nước giùm chúng con và cho chiên uống nữa.” Người cha bảo các con: “Thế người đó đâu rồi? Đi mời ông ta đến dùng bữa.” Ông Mô-sê bằng lòng ở lại nhà thầy tư tế, và sau này lấy người con gái là Xíp-pô-ra. Nàng sinh một con trai và ông đặt tên cho nó là Ghéc-sôm, vì ông nói: “Tôi là ngoại kiều nơi đất khách quê người.”


Giu-se giải thích giấc mơ cho Vua Pha-ra-ô – Kinh Thánh Trẻ (Cựu Ước)

Câu chuyện thứ 10:
GIUSE GIẢI THÍCH GIẤC MƠ CHO VUA PHA-RA-Ô
Sách Sáng Thế chương 40

Vua Pha-ra-ô giam hai vị quan thái giám làm trái ý vua trong nhà tù nơi Giu-se đang bị giam giữ. Viên cai tù đặt Giu-se ở với họ và phục vụ họ. Vào một đêm, cả hai quan tướng đang bị giam đều làm mơ; mỗi người có giấc mơ riêng, và mỗi giấc làm mơ có một ý nghĩa khác.

Sáng ra thấy mặt họ buồn, Giu-se hỏi hai quan tướng: “Tại sao hôm nay mặt mày các ông buồn thế? ” Họ trả lời: “Chúng tôi đêm qua làm mơ, mà không có ai giải thích cả.” Giu-se nói với họ: “Giải thích là việc của Thiên Chúa, nhưng cứ kể lại cho tôi nghe xem.”

Quan thứ nhất kể lại giấc mơ cho Giu-se, ông nói: “Trong giấc mơ, tôi thấy trước mặt tôi có một cây nho, trên cây nho có ba ngành. Khi cây đâm chồi thì hoa nở ra và các chùm nho chín. Trong tay tôi có chén của Pha-ra-ô. Tôi hái nho, ép nước đổ vào chén của Pha-ra-ô, rồi đặt chén vào lòng bàn tay Pha-ra-ô.”

Giu-se giải thích giấc mơ cho ông ấy: “Ba ngành là ba ngày. Còn ba ngày nữa, Pha-ra-ô sẽ nâng đầu ông lên. Vua sẽ phục hồi chức vụ cho ông, và ông sẽ đặt chén vào tay vua Pha-ra-ô, như lúc ông còn là quan của vua. Khi vua xử tốt với ông, xin ông tỏ tình thương đối với tôi và tâu với Pha-ra-ô về tôi, để vua sớm thả tôi ra.”

Quan kia thấy Giu-se đã giải thích có lý nên nói với ông: “Cả tôi nữa, trong giấc làm mơ, tôi thấy ba giỏ bánh trên đầu tôi. Trong giỏ trên cùng, có đủ thứ bánh ngọt để cho Pha-ra-ô ăn. Chim chóc rỉa những thứ đó trong cái giỏ trên đầu tôi.”

Giu-se giải thích rằng: “Ba giỏ là ba ngày. Còn ba ngày nữa, Pha-ra-ô sẽ nâng đầu ông lên khỏi thân ông. Vua sẽ treo ông lên cây, và chim chóc sẽ rỉa thịt ông.” Ông nghe vậy thì sợ hãi lắm.

Sang ngày thứ ba sinh nhật của Pha-ra-ô, vua mở tiệc ăn mừng với các triều thần và nâng đầu hai qua ấy lên giữa triều thần. Vua phục hồi chức vụ cho quan chánh, và ông đặt chén vào lòng bàn tay Pha-ra-ô. Còn quan chánh kia thì vua treo lên, như Giu-se đã giải thích giấc mơ cho họ.

Hai năm sau, Pha-ra-ô làm mơ thấy mình đang đứng trên bờ sông Nin, và từ sông Nin có bảy con bò cái đi lên, hình dáng đẹp đẽ và da thịt béo tốt; chúng ăn cỏ trong đám lau sậy. Sau những con ấy, có bảy con bò cái khác từ sông Nin đi lên, hình dáng xấu xí và da thịt gầy còm, chúng đứng bên cạnh những con bò kia. Bảy con bò cái hình dáng xấu xí và da thịt gầy còm ăn thịt bảy con bò cái hình dáng đẹp đẽ và béo tốt. Bấy giờ Pha-ra-ô tỉnh giấc.

Vua ngủ lại và làm mơ lần thứ hai. Vua thấy bảy bông lúa đâm lên trên cùng một cọng, mẩy và tốt. Rồi có bảy bông lúa lép và nám cháy vì gió đông, mọc lên sau chúng. Bảy bông lúa lép nuốt chửng bảy bông lúa mẩy và chắc. Bấy giờ Pha-ra-ô tỉnh dậy và biết đó là giấc mơ.

Sáng ra, vua không băn khoăn vì giấc mơ đó, vua mời tất cả các phù thủy và hiền sĩ Ai-cập đến: Pha-ra-ô kể lại cho họ các giấc làm mơ của mình, nhưng không có ai giải thích được.

Bấy giờ quan chánh nhớ tới Giuse là người đã giải thích giấc mơ cho ông, và cho mời Giu-se đến. Pha-ra-ô nói cho Giu-se nghe về giấc mơ của mình. Giu-se thưa Pha-ra-ô: “Hai giấc mơ của Pha-ra-ô chỉ là một. Điều Thiên Chúa sắp làm thì Người đã báo cho Pha-ra-ô biết trước. Bảy con bò cái tốt là bảy năm, bảy bông lúa tốt cũng là bảy năm được mùa. Bảy con bò cái ốm nhom và xấu xí đi lên sau chúng là bảy năm, và bảy bông lúa còi và nám cháy vì gió đông là bảy năm đói kém.

Sắp tới là bảy năm rất sung túc trong toàn cõi Ai-cập. Tiếp sau những năm đó là bảy năm đói kém; trong xứ Ai-cập người ta sẽ quên đi tất cả sự sung túc đang có, và nạn đói sẽ rất trầm trọng.

Lời giải thích đó làm hài lòng Pha-ra-ô và triều thần. Vua nói: “Chúng ta tìm đâu được một người như người này, một người có Thần Khí Thiên Chúa ở cùng?” Pha-ra-ô nói với ông Giu-se: “Thiên Chúa đã cho ông biết tất cả những điều ấy, không ai thông minh và khôn ngoan như ông. Ông sẽ là tể tướng triều đình của ta, toàn thể dân ta sẽ phục tùng mệnh lệnh của ông; ta lớn hơn ông chỉ có ngai vua mà thôi.”

Pha-ra-ô nói với ông Giu-se: “Ta đặt ông cai quản đất nước Ai-cập.”

(nguồn: Chứng nhân Đức Ki-tô)

Ông Giu-se bị bán qua Ai Cập – Kinh Thánh Trẻ (Cựu Ước)

Câu chuyện thứ 09:
ÔNG GIUSE BỊ BÁN QUA AI-CẬP
Sách Sáng Thế chương 37

Gia-cóp có 12 người con trai. Giu-se được 17 tuổi thì đi chăn chiên với các anh mình. Ông Ít-ra-en yêu Giu-se hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu, ông may cho cậu một áo choàng dài tay. Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn mình, thì ghét cậu và không ăn nói tử tế với cậu.

Một lần kia Giu-se làm mơ và kể lại giấc mơ cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm. Cậu kể cho họ nghe về giấc mơ: “Em thấy chúng ta đang bó những bó lúa ngoài đồng, bó lúa của em vươn dậy, đứng thẳng lên, còn những bó lúa của các anh bao quanh bó lúa của em, và sụp xuống lạy bó lúa của em.” Các anh bảo cậu: “Mày muốn làm vua cai trị chúng tao sao đây?” Và họ càng ghét cậu thêm.

Một lần khác cậu lại làm mơ và kể cho các anh. Cậu nói: “Em lại làm mơ. Em thấy mặt trời, mặt trăng và 11 ngôi sao đang sụp xuống lạy em.” Cậu kể lại cho cha và các anh nghe, nhưng cha mắng cậu và nói: “Giấc mơ mày đã thấy là gì? Không lẽ Tao, mẹ mày và các anh mày lại phải sụp xuống đất lạy mày sao?” Các anh càng ghen với cậu, còn cha cậu thì nhớ điều ấy.

Một hôm, Ông Ít-ra-en gọi bảo Giu-se: “Các anh con đang chăn chiên dê ở đồng Si-khem. Con hãy đi xem các anh con và chiên dê có được bình yên không, rồi hãy trở về báo cho cha biết.”

Giu-se ra đi và tìm thấy các anh mình đang giữ chiên ở Đô-than. Thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần thì họ lập mưu giết chết cậu. Họ bảo nhau: “Thằng vua làm mơ đang đến kia. Chúng ta hãy giết và ném nó xuống một cái giếng. Chúng ta sẽ nói với cha là thú dữ đã ăn thịt nó. Để xem giấc mơ của nó đi tới đâu!”

Nghe thấy thế, Rưu-vên tìm cách cứu Giuse; cậu nói: “Đừng đụng tới mạng sống nó.” Rưu-vên bảo họ: “Đừng đổ máu em chúng ta. Cứ ném nó xuống cái giếng trong sa mạc, nhưng đừng giết hại nó.” Cậu có ý cứu em khỏi tay họ và đưa về cho cha. Khi Giu-se đến chỗ các anh, thì họ lột chiếc áo chùng dài tay cậu đang mặc. Họ túm lấy cậu và ném xuống cái giếng; giếng đó cạn, không có nước. Rồi họ ngồi xuống ăn cơm.

Giu-đa nói với các anh em: “Ta giết Giuse và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì? Thôi, ta hãy bán nó cho người Ít-ma-ên, vì nó là em ta.” Các anh em cùng đồng ý.

Những người buôn Ma-đi-an đi qua đó. Họ kéo Giu-se lên khỏi giếng, rồi bán cậu cho người Ít-ma-ên 20 đồng bạc. Những người này đưa Giu-se sang Ai-cập. Khi Rưu-vên trở lại giếng thì thấy Giu-se không còn ở dưới giếng nữa. Cậu liền xé áo mình ra hối hận. Cậu đến nói với các em: “Thằng bé không còn nữa! Còn tôi, tôi biết đi đâu bây giờ!”

Họ lấy áo choàng của Giu-se, giết một con dê đực, rồi nhúng áo chùng vào máu. Họ gửi người mang cái áo chùng dài tay về cho cha họ và nói: “Chúng con đã thấy cái này. Xin cha nhận ra xem có phải là áo của con cha hay không.” Ông nhận ra cái áo và kêu lên: “Áo chùng của Giuse đây! Thú rừng đã xé xác ăn thịt nó rồi! ” Ông Gia-cóp xé áo mình ra, khóc thương cậu. Tất cả các con trai con gái ông đến an ủi ông, nhưng ông không chịu cho người ta an ủi.

Người Ma-đi-an đem bán Giuse cho ông Pô-ti-pha là viên chỉ huy của vua Ai-cập là Pha-ra-ô.

(nguồn: Chứng nhân Đức Ki-tô)

Lời hứa và I-xa-ác sinh ra đời – Kinh Thánh Trẻ (Cựu Ước)

Câu chuyện thứ 08:
LỜI HỨA VÀ I-XA-ÁC SINH RA ĐỜI
Sách Sáng Thế chương 15,18,21

Thiên Chúa phán với ông Áp-ram trong một thị kiến rằng: “Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là Đấng che chở ngươi; Ta sẽ thưởng rất lớn cho lòng tin của ngươi.” Ông Áp-ram thưa: “Chúa sẽ thưởng cho con cái gì nào? Con ra đi như lời Chúa truyền nhưng không có một người con để nối dòng.”

Thiên Chúa phán với ông rằng: “Đừng lo, ngươi sẽ có một người con nối dòng của chính người.” Rồi Thiên Chúa đưa tay chỉ lên trời phán: “Hãy ngước mắt nhìn lên trời, và đếm các vì sao xem ngươi có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ đông như thế đó!” Ông tin Thiên Chúa, vì thế, ông là người công chính.

Khi ông Áp-ram được 99 tuổi, Thiên Chúa phán với ông rằng: “Đây là giao ước của Ta với ngươi: ngươi sẽ làm cha của các dân tộc. Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm cha các dân tộc. Ta sẽ cho ngươi có nhiều con cháu. Ta sẽ ban cho ngươi và con cháu ngươi sau này miền đất Ca-na-an làm gia nghiệp và Ta sẽ là Thiên Chúa của con cháu ngươi.”

Thiên Chúa lại phán với ông Áp-ra-ham: “Đừng gọi vợ ngươi là Xa-rai nữa, nhưng gọi là Xa-ra. Vì Ta sẽ chúc phúc cho nó, Ta sẽ cho nó sinh cho ngươi một con trai. Ta sẽ chúc phúc cho đứa bé, nó sẽ trở thành những dân tộc; vua chúa các dân sẽ phát xuất từ nó”.

Ông Áp-ra-ham cúi rạp xuống cười thầm và nghĩ bụng: “Tôi già 100 tuổi rồi mà có con được sao? Còn Xa-ra đã 90 tuổi mà sinh con được sao?” Nhưng Thiên Chúa phán: “Chính Xa-ra vào ngày này sang năm sẽ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt tên cho nó là I-xa-ác. Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn”

Thiên Chúa đoái nhìn và viếng thăm bà Xa-ra và cho bà sinh con như Người đã hứa. Bà Xa-ra có thai và sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai là I-xa-ác,  Ông Áp-ra-ham lúc đó được 100 tuổi. Bà Xa-ra nói: “Thiên Chúa đã làm cho tôi cười; tất cả những ai nghe biết chuyện này cũng sẽ cười.”

(nguồn: Chứng nhân Đức Ki-tô)

Ông Áp-bra-ham và Bà Xa-ra – Kinh Thánh Trẻ (Cựu Ước)

Câu chuyện thứ 07:
ÔNG ÁP-BRA-HAM VÀ BÀ XA-RA
Sách Sáng Thế chương 12,13

Ông Áp-ram được 75 tuổi khi đang ở miền đất Kha-ran nơi nhà cha ông thì Thiên Chúa nói với Áp-ram: “Hãy rời bỏ quê hương xứ sở, và nhà cha ngươi, mà đi tới miền đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi trở thành một dân tộc lớn, và Ta sẽ chúc phúc cho ngươi. Nhờ ngươi mà mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.”

Ông Áp-ram tuy già nua, yếu sức nhưng ông tin vào lời Thiên Chúa và ra đi như Thiên Chúa đã phán với ông. Ông và vợ là bà Xa-ra chưa có người con nào. Ông Áp-ram đem theo vợ, cháu là ông Lót, và tài sản đi tới miền đất mới. Họ đi về phía Ca-na-an cho đến nơi gọi là Si-khem thì dừng chân ở đó.

Thiên Chúa hiện ra với ông Áp-ram và phán: “Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi.” Tại đây, ông dựng một bàn thờ để kính Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã hiện ra với ông.

Ở Ai-cập xảy ra nạn đói, Ông Áp-ram từ Ai-cập đi lên miền Ne-ghép, cùng với vợ và tất cả những gì ông có; ông Lót cũng đi với ông. Ông Áp-ram trở nên rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc. Ông Lót, cháu ông Áp-ram, cũng có nhiều chiên bò. Đất ấy không đủ chỗ cho họ ở chung và họ có quá nhiều tài sản nên không thể ở chung với nhau được. Ông Áp-ram nói với ông Lót: chúng ta là bác cháu với nhau nhưng chúng ta không thể chung sống với nhau được nữa. Vậy nếu cháu đi về bên trái thì bác sẽ đi về bên phải; nếu cháu đi về bên phải thì bác sẽ đi về bên trái.” Thế rồi họ chia tay nhau.

Thiên Chúa phán với ông Áp-ram: “Hãy ngước mắt lên, từ chỗ ngươi đang đứng, nhìn về mọi hướng. Tất cả miền đất ngươi đang thấy đó, Ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi. Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển. Hãy đi khắp miền đất này, vì Ta sẽ ban nó cho ngươi.”

(nguồn: Chứng nhân Đức Ki-tô)

Tháp Ba-ben – Thánh Kinh Trẻ (Cựu Ước)

Câu chuyện thứ 06:
THÁP BA-BEN 
Sách Sáng Thế chương 11, câu 1-8

Ngày xưa, mọi người đều nói chung một thứ tiếng, và họ hiểu tiếng nói của nhau. Trong khi con người đi về phía Đông, họ thấy một đồng bằng xanh tốt ở miền Sin-a và họ định cư tại đó.

Họ họp nhau lại và nói: “Chúng ta hãy dùng đất đúc và lấy lửa mà nung thành gạch để xây cất nhà cửa”. Họ dùng gạch thay vì đá và lấy nhựa đen làm hồ.

Họ nói: “Tại sao Chúng ta không xây cho mình một thành phố lớn và một tháp có đỉnh cao chọc trời, đụng tới các vì sao? Chúng ta phải làm cho danh chúng ta lẫy lừng, và để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất.”

Thiên Chúa từ trên cao xem thành phố và tháp canh mà con cái loài người đang xây. Thiên Chúa phán: “Đây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đã làm như thế thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm được. Ta sẽ xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không hiểu nhau được nữa.”

Thế là Thiên Chúa cho họ nói nhiều thứ tiếng và phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất, và họ thôi không xây tháp canh nữa. Người ta đặt tên cho thành phố ấy là Ba-ben, vì tại đó, Thiên Chúa đã làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và Thiên Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất.

(nguồn: Chứng nhân Đức Ki-tô)

Lụt Hồng Thủy thời Ông Nô-ê – Kinh Thánh Trẻ (Cựu Ước)

Câu chuyện thứ 05:
LỤT ĐẠI HỒNG THUỶ THỜI ÔNG NÔ-Ê
Sách Sáng Thế chương 6 và 7

Con người sống hư hỏng, sống gian ác và làm điều dữ trên mặt đất. Thiên Chúa buồn rầu và hối hận vì đã làm ra họ bởi họ sống trái mắt Thiên Chúa.

Thiên Chúa phán: “Ta sẽ xóa bỏ con người mà Ta đã sáng tạo cùng với mọi thú vật trên trời dưới đất”. Nhưng ông Nô-ê là người sống công chính và đẹp lòng Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn cứu sống ông và gia đình.

Ông Nô-ê có ba người con là Sêm, Kham và Gia-Phét. Thiên Chúa
phán với ông Nô-ê: “Ta đã quyết định số phận của con người trên mặt đất. Ta sẽ xóa bỏ chúng vì họ sống gian ác. Ngươi hãy làm cho mình một chiếc tàu bằng gỗ: chiều dài 150 thước, chiều rộng 25 thước, chiều cao 15 thước. Ngươi sẽ làm một cái mui che tàu. Ngươi sẽ làm tàu có nhiều tầng: tầng dưới, tầng giữa rồi tầng trên.

Ta sắp cho mưa lớn đổ xuống và nước sẽ dâng cao trên mặt đất. Nhưng Ta sẽ lập giao ước của Ta với các ngươi.Ngươi, vợ người cùng các con trai, vợ của các con trai ngươi hãy vào tàu.

Trong các loài thú vật,  ngươi sẽ đưa vào tàu mỗi loại một đôi. Mỗi đôi là một con đực và một con cái. Trong mỗi loại chim, mỗi loại gia súc, mỗi loại bò dưới đất, mỗi loại một đôi mang lên tàu cho chúng sống với ngươi.

Hãy lấy tích trữ thức ăn cho gia đình mình và cho các thú vật. Đó sẽ là lương thực nuôi sống gia đình ngươi và các thú vật trên tàu.” Ông Nô-ê đã làm đúng như lời Thiên Chúa đã truyền cho ông.

Thiên Chúa phán với ông Nô-ê: “Ngươi và cả nhà ngươi hãy vào tàu, vì Ta chỉ thấy có ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này.

Bảy ngày nữa Ta sẽ cho mưa xuống trên mặt đất trong vòng 40 ngày 40 đêm, và Ta sẽ xoá khỏi mặt đất mọi loài Ta đã làm ra.” Ông Nô-ê làm đúng như Thiên Chúa đã truyền. Ông Nô-ê được 600 tuổi khi lụt hồng thuỷ xảy đến trên mặt đất. Ông Nô-ê vào trong tàu và Thiên Chúa ở ngoài đóng cửa tàu lại.

Lụt hồng thủy kéo dài 40 ngày trên mặt đất. Nước dâng lên cao trên mặt đất, và tàu lênh đênh trên mặt nước. Mọi ngọn núi cao ở khắp nơi đều bị nước phủ lấp. Ông Nô-ê, gia đình ông và những gì ở trong tàu với ông đều sống sót.

Hết 40 ngày, ông Nô-ê mở cửa sổ trên tàu, rồi thả bồ câu ra để xem nước đã cạn khô hay chưa. Vào buổi chiều, con bồ câu bay trở về với ông, và kìa trong mỏ nó có một cành ô-liu xanh tươi! Ông Nô-ê biết là nước đã khô cạn trên mặt đất.

Thiên Chúa phán với ông Nô-ê rằng: “Ngươi hãy ra khỏi tàu cùng với vợ ngươi, các con trai ngươi và vợ của các con trai ngươi. Mọi loài vật ở với ngươi, tất cả chim chóc, gia súc, mọi sinh vật bò dưới đất, ngươi hãy đưa chúng ra với ngươi; chúng phải sinh sôi nảy nở thật nhiều trên mặt đất.”

Ông Nô-ê làm một bàn thờ để kính Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã cứu thoát ông. Ông bắt một số các gia súc thanh sạch và các loài chim thanh sạch mà dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ. Hương thơm lễ vật làm Thiên Chúa hài lòng và Thiên Chúa tự nhủ: “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất đai vì con người nữa”.

(nguồn: Chứng nhân Đức Ki-tô)

Hai anh em Ca-in và A-ben – Kinh Thánh Trẻ (Cựu Ước)

Câu chuyện thứ 04:
HAI ANH EM CA-IN VÀ A-BEN
Sách Sáng Thế chương 4, câu 1-8

Ông Adong và Bà Evà sinh được người con thứ nhất là Ca-in. Bà Evà vui mừng nói: “Nhờ Thiên Chúa, tôi đã có được một người con nối dòng”.

Sau đó, bà sinh ra A-ben, em của Ca-in. A-ben thích ra đồng chăn chiên và súc vật, A-ben bắt những con chiên đầu lòng làm thịt cùng với mỡ của chúng lên Thiên Chúa. Còn Ca-in làm nghề cầy cấy và canh tác đất đai. Ca-in lấy những hoa trái của đất đai làm lễ vật dâng lên Thiên Chúa.

Thiên Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, vì ông dâng lên Thiên Chúa với lòng thành kính, nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt.

Thiên Chúa phán với Ca-in: “Tại sao ngươi giận dữ và sa sầm nét mặt? Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang rình rập ngoài tâm hồn, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chống lại nó.”

Ca-in nói với em là A-ben: “Chúng mình ra ngoài đồng đi! ” Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in xông đến giết A-ben, em mình. Thiên Chúa phán với Ca-in: “A-ben em ngươi đâu rồi? ” Ca-in thưa: “Con không biết. Con là người trông giữ em con hay sao? ” Thiên Chúa phán: “Ngươi đã làm gì vậy?Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất.” Ông Ca-in đi xa khuất mặt Thiên Chúa về phía đông Ê-đen.

(nguồn: Chứng nhân Đức Ki-tô)

Lựa chọn sai lầm – Kinh Thánh Trẻ (Cựu Ước)

Câu chuyện thứ 03:
LỰA CHỌN SAI LẦM
Sách Sáng Thế chương 3, câu 1-20

Rắn là loài dối trá nhất trong vườn. Một hôm con rắn nói với Evà: “Có phải Thiên Chúa cấm ông bà không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?”. 
Evà đáp: “Đúng thế, hết mọi cây trong vườn thì được ăn, ngoại trừ có cây ở giữa vườn thôi. Chúa bảo không được ăn kẻo phải chết”.

Rắn liền cám dỗ Evà: “Chẳng chết chóc gì đâu bà ơi, nếu Chúa biết ngày nào bà ăn trái đó, bà sẽ là một thần linh khôn ngoan biết điều tốt, điều xấu”.

Evà nhìn trái cây thì thấy đẹp mắt và ngon. Bà liền đưa tay hái ăn và đưa cho chồng cùng ăn. Khi họ vừa ăn thì mắt họ mở ra, và họ biết điều tốt điều xấu đúng như lời Thiên Chúa phán. Họ mắc cở chạy tìm lá che thân vì thấy mình trần truồng. Họ đã phạm tội không vâng lời Thiên Chúa.

Chiều đến, Thiên Chúa đi trong vườn, Ngài gọi Adong từ xa: “Adong, ngươi ở đâu?”.  Adong thưa: “Con nghe tiếng Ngài, nhưng vì trần truồng nên con lẩn trốn”. Thiên Chúa hỏi: “Có phải ngươi đã ăn trái Ta cấm không?”.  Adong đáp: “Evà đã đưa trái đó cho con và con đã ăn”. Chúa hỏi Evà: “Ngươi đã làm gì thế?” Evà đổ lỗi cho con rắn: “Con rắn đã lừa dối con, nên con đã ăn”.

Chúa nguyền rủa con rắn: “Bởi vì mi đã lừa dối người ta, nên mi sẽ phải bò bằng bụng suốt đời mi”. Rồi Chúa nói với Avà: “Vì các ngươi không vâng lời Ta, nên ngươi sẽ phải mang nặng, khi sinh đẻ thì đau đớn”. Và Chúa nói với Adong: “Ngươi sẽ phải làm việc vất vả mới có bánh để ăn, vì đất sẽ trổ sinh gai góc”.

Thiên Chúa làm cho họ những chiếc áo che thân và mặc cho họ. Ngài mang họ ra khỏi vườn, và họ bắt đầu một cuộc sống vất vả.

(nguồn: Chứng nhân Đức Ki-tô)

Con người đầu tiên trên mặt đất – Kinh Thánh Trẻ Cựu Ước

Câu chuyện thứ 02:
CON NGƯỜI ĐẦU TIÊN TRÊN MẶT ĐẤT
Sách Sáng Thế chương 2, câu 5-25

Ngày Thiên Chúa dựng nên trời và đất, Thiên Chúa cho một dòng nước dưới đất trào lên tưới khắp địa cầu. Thiên Chúa lấy đất nặn ra con người giống hình ảnh Chúa, vì Chúa muốn chia sẻ tình thương với con người. Chúa thổi hơi vào lỗ mũi và con người liền trở nên sinh vật có sự sống. Con người bắt đầu đi đứng, hít thở và trái tim cũng bắt đầu đập. Con người đầu tiên đó là Adong.

Thiên Chúa trồng một vườn cây Êđen hay còn gọi là vườn điạ đàng. Thiên Chúa cho đủ mọi thứ cây mọc lên, nở hoa xinh đẹp và trái ăn thì rất ngon. Ở giữa vườn, Chúa cho mọc lên cây trường sinh, là cây biết điều tốt, điều xấu. Một con sông từ Êđen chảy ra chia làm bốn nhánh tưới khắp vườn. Chúa mang con người đặt vào vườn địa đàng để sinh sống và canh giữ vườn.

Chúa truyền cho con người được ăn hết mọi thứ cây trong vườn, cả ngàn ngàn cây khác nhau, nhưng  chỉ có trái cây ở giữa vườn là cây biết điều tốt điều xấu thì Thiên Chúa nói con người không được ăn kẻo sẽ phải chết.

Thấy con người sống một mình cô đơn, Chúa làm ra nhiều thú vật, chim trời dẫn đến vây quanh con người. Hễ con người gọi tên là gì, thì đó là tên của con thú đó. Thế nhưng, con người vẫn không tìm được người bạn tương xứng với mình. Chúa biết điều đó, và Chúa đợi lúc Adong ngủ say, Chúa rút cái xương sườn của Adong ra. Chúa lấy xương sường đó làm nên người đàn bà xinh đẹp. Lúc Adong thức dậy, Chúa dẫn người đàn bà tới gặp Adong. Adong mừng lắm vì có người bạn đồng hành. Adong gọi người đàn bà là Evà. Hai người sống hạnh phúc với nhau.

(nguồn: Chứng nhân Đức Ki-tô)

Thiên Chúa dựng nên trời đất – Kinh Thánh Trẻ Cựu Ước

Câu chuyện thứ 01:
THIÊN CHÚA DỰNG NÊN TRỜI ĐẤT
Sách Sáng Thế chương 1, câu 1-28

Ngày xưa khi chưa có trời và đất, bóng tối bao trùm vực thẳm, Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước.

Thiên Chúa phán: “Hãy có ánh sáng”. Liền có như vậy. Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Ánh sáng là ban ngày, và bóng tối là ban đêm. Đó là ngày thứ nhất.

Thiên Chúa lại phán: “Phải có bầu trời ở phía trên để chia với nước ở phía dưới. Nước dưới bầu trời phải tụ lại một nơi là biển, còn chỗ cạn nhô ra là đất liền”. Tức thì liền có như vậy. Đó là ngày thứ hai.

Ngày xưa khi chưa có trời và đất, bóng tối bao trùm vực thẳm, Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước.

Thiên Chúa phán: “Hãy có ánh sáng”. Liền có như vậy. Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Ánh sáng là ban ngày, và bóng tối là ban đêm. Đó là ngày thứ nhất.

Thiên Chúa lại phán: “Phải có bầu trời ở phía trên để chia với nước ở phía dưới. Nước dưới bầu trời phải tụ lại một nơi là biển, còn chỗ cạn nhô ra là đất liền”. Tức thì liền có như vậy. Đó là ngày thứ hai.

Thiên Chúa lại phán: “Đất phải sinh ra nhiều thú vật, gia súc, các loài bò sát và côn trùng”. Liền có như vậy. Thấy tốt đẹp và Thiên Chúa phán: ” Ta hãy làm ra con người có nam, có nữ giống hình ảnh của Ta, để họ làm chủ mọi thứ trên mặt đất”. Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho họ sinh sản ra nhiều trên mặt đất. Đó là ngày thứ sáu.

Sau khi hoàn thành việc tạo dựng trời đất. Ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ ngơi. Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày đó.

(nguồn: Chứng nhân Đức Ki-tô)